Giải quyết tranh chấp lãnh thổ Hội_Quốc_Liên

Chiến tranh thế giới thứ nhất để lại nhiều vấn đề cần phải giải quyết, bao gồm xác định vị trí chính xác các biên giới quốc gia và quốc gia cụ thể mà các khu vực sẽ gia nhập. Những cường quốc Đồng Minh chiến thắng xử lý hầu hết những vấn đề này thông qua các cơ cấu như Hội đồng Tối cao Đồng Minh. Đồng Minh có xu hướng chỉ chuyển các vấn đề đặc biệt khó khăn cho Hội Quốc Liên. Điều này có nghĩa là, trong thời gian đầu giữa hai Thế Chiến, Hội Quốc Liên giữ vai trò nhỏ trong giải quyết rối loạn từ chiến tranh. Các vấn đề mà Hội Quốc Liên xem xét trong những năm đầu này gồm có những vấn đề được chỉ định theo các Hiệp định hòa bình Paris.[87]

Khi Hội Quốc Liên phát triển, vai trò của tổ chức được khoách trương, và đến giữa thập niên 1920 thì tổ chức trở thành trung tâm của hoạt động quốc tế. Sự biến đổi này được nhận thấy trong quan hệ giữa Hội Quốc Liên với phi thành viên, như Hoa Kỳ và Nga gia tăng làm việc cùng Hội Quốc Liên. Trong nửa sau của thập niên 1920, Pháp, Anh và Đức đều sử dụng Hội Quốc Liên làm trọng điểm trong hoạt động ngoại giao của họ, và bộ trưởng ngoại giao những quốc gia này tham gia các cuộc họp của Hội Quốc Liên tại Genève trong giai đoạn này. Họ cũng sử dụng cơ cấu của Hội Quốc Liên nhằm cải thiện các quan hệ và giải quyết những bất đồng của họ.[88]

Quần đảo Åland

Åland là một quần đảo nằm giữa Thụy Điển và Phần Lan, dân cư tại quần đảo hầu như chỉ nói tiếng Thụy Điển. Năm 1809, Thụy Điển để mất Phần Lan và Åland cho Đế quốc Nga. Đến tháng 12 năm 1917, Phần Lan tuyên bố độc lập, song hầu hết dân cư Åland muốn tái gia nhập Thụy Điển.[89] Tuy nhiên, chính phủ Phần Lan cho rằng quần đảo là một bộ phận của Phần Lan, do người Nga hợp nhất Åland trong Đại Công quốc Phần Lan. Đến năm 1920, tranh chấp leo thang đến mức có nguy cơ chiến tranh. Chính phủ Anh Quốc chuyển vấn đề lên Ủy ban của Hội Quốc Liên, song Phần Lan không cho Hội Quốc Liên can thiệp vì cho rằng đây là một vấn đề nội bộ. Hội Quốc Liên thiết lập một nhóm hội thảo nhỏ nhằm quyết định có nên nghiên cứu về vấn đề, kết quả là một ủy ban trung lập được thiết lập.[89] Đến tháng 6 năm 1921, Hội Quốc Liên tuyên bố quyết định của mình: quần đảo vẫn là một bộ phận của Phần Lan, song với sự bảo vệ được bảo đảm dành cho dân cư quần đảo, trong đó có phi quân sự hóa. Với sự chấp thuận miễn cưỡng của Thụy Điển, đây trở thành thỏa thuận quốc tế đầu tiên tại châu Âu được dàn xếp trực tiếp thông qua Hội Quốc Liên.[90]

Thượng Silesia

Các cường quốc Đồng Minh chuyển vấn đề Thượng Silesia đến Hội Quốc Liên sau khi họ không thể giải quyết tranh chấp lãnh thổ.[91] Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Lan đưa ra tuyên bố chủ quyền đối với Thượng Silesia- một bộ phận của Phổ. Hiệp ước Versailles đề nghị một cuộc trưng cầu dân ý tại Thượng Silesia nhằm xác định lãnh thổ nên trở thành bộ phận của Đức hay Ba Lan. Những than phiền về thái độ của nhà cầm quyền Đức dẫn đến náo động và cuối cùng dẫn đến hai cuộc nổi dậy Silesia (1919 và 1920). Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào ngày 20 tháng 3 năm 1921, với 59,6% (khoảng 500.000) số phiếu ủng hộ gia nhập Đức, song Ba Lan tuyên bố hoàn cảnh quanh cuộc bỏ phiếu là không công bằng. Điều này dẫn đến cuộc nổi dậy Silesia thứ ba vào năm 1921.[92]

Ngày 12 tháng 8 năm 1921, Hội Quốc Liên được yêu cầu giải quyết vấn đề; Hội chính vụ thiết lập một ủy ban với những đại biểu từ Bỉ, Brasil, Trung Quốc và Tây Ban Nha nhằm nghiên cứu tình hình.[93] Ủy ban đề nghị phân chia Thượng Silesia giữa Ba Lan và Đức theo kết quả từ cuộc trưng cầu dân ý và hai bên nên quyết định các chi tiết về tương tác giữa hai khu vực, như hàng hóa cần phải được thông qua biên giới một cách tự do vì sự phụ thuộc tương hỗ trong kinh tế và công nghiệp của hai khu vực.[94] Đến tháng 11 năm 1921, một hội nghị được tổ chức tại Genève nhằm dàn xếp thỏa thuận giữa Đức và Ba Lan. Hội nghị đạt được một dàn xếp cuối cùng sau năm buổi họp, theo đó hầu hết khu vực được trao cho Đức, song phần thuộc Ba Lan có đa số tài nguyên khoáng sản và nhiều cơ sở công nghiệp của khu vực. Khi thỏa thuận này được công khai vào tháng 5 năm 1922, người Đức oán thán, song hiệp định vẫn được hai quốc gia phê chuẩn. Sự dàn xếp đem lại hòa bình tại khu vực cho đến khu bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ hai.[93]

Albania

Biên giới của Albania không được xác định trong hội nghị hòa bình Paris năm 1919, vấn đề này được để lại cho Hội Quốc Liên quyết định. Đến tháng 9 năm 1921, vấn đề vẫn chưa được giải quyết, tạo ra một tình thế bất ổn định. Quân đội Hy Lạp tổ chức các chiến dịch quân sự ở phía nam của Albania, còn lực lượng Nam Tư xảy ra xung đột với người Albania ở phía bắc. Hội Quốc Liên phái một ủy ban gồm đại biểu từ nhiều cường quốc đến khu vực. Trong tháng 11 năm 1921, Hội Quốc Liên quyết định rằng biên giới của Albania nên tương đồng như vào năm 1913, với ba biến đổi nhỏ có lợi cho Nam Tư. Lực lượng Nam Tư triệt thoái một vài tuần sau đó.[95]

Biên giới của Albania lại trở thành nguyên nhân gây xung đột quốc tế khi Tướng Enrico Tellini của Ý cùng bốn người phụ tá của ông bị phục kích và sát hại vào ngày 24 tháng 8 năm 1923 trong khi đang vạch biên giới mới được giải quyết giữa Hy Lạp và Albania. Nhà lãnh đạo Ý Benito Mussolini tức giận và yêu cầu về một ủy ban điều tra sự kiện trong vòng năm ngày. Bất chấp kết quả từ việc điều tra, Mussolini yêu cầu chính phủ Hy Lạp trả cho Ý 50 triệu lira tiền bồi thường. Hy Lạp tuyên bố họ sẽ không trả trừ khi chứng minh được rằng người Hy Lạp phạm tội.[96]

Mussolini cử một chiếm hạm bắn phá đảo Corfu của Hy Lạp, và quân Ý chiếm đóng đảo vào ngày 31 tháng 8 năm 1923. Hành động này vi phạm Công ước Hội Quốc Liên, do vậy Hy Lạp yêu cầu Hội Quốc Liên giải quyết tình hình. Tuy nhiên, Đồng Minh đồng thuận rằng (do kiên trì của Mussolini) Hội nghị các đại sứ nên chịu trách nhiệm phân xử tranh chấp do hội nghị bổ nhiệm Tướng Tellini. Hội chính vụ Hội Quốc Liên khảo sát tranh chấp, song sau đó chuyển những phát hiện của họ cho Hội nghị các đại sứ để cơ cấu này ra quyết định cuối cùng. Hội nghị chấp thuận hầu hết đề xuất của Hội Quốc Liên, buộc Hy Lạp trả 50 triệu lira cho Ý mặc dù không thể tìm ra những người phạm tội.[97] Quân Ý triệt thoái khỏi Corfu.[98]

Memel

Thành phố cảng Memel và khu vực xung quanh có dân cư chủ yếu là người Đức, và nằm dưới quyền quản lý của Đồng Minh theo Điều 99 của Hiệp ước Versailles. Các chính phủ Pháp và Ba Lan ủng hộ chuyển Memel thành một đô thị quốc tế, trong khi Litva muốn sáp nhập khu vực này. Đến năm 1923, số phận của khu vực vẫn chưa được quyết định, thúc đẩy lực lượng Litva xâm chiếm vào tháng 1 năm 1923 và chiếm cảng. Sau khi Đồng Minh thất bại trong việc đạt một thỏa thuận với Litva, họ chuyển vấn đề lên Hội Quốc Liên. Trong tháng 12 năm 1923, Hội chính vụ Hội Quốc Liên chỉ định một ủy ban điều tra. Ủy ban này lựa chọn nhượng Memel cho Litva và trao cho khu vực các quyền tự trị. Công ước Klaipėda được Hội chính vụ Hội Quốc Liên phê chuẩn vào ngày 14 tháng 3 năm 1924, sau đó đến lượt các cường quốc Đồng Minh và Litva.[99]

Hatay

Dưới sự giám sát của Hội Quốc Liên, huyện Alexandretta tại lãnh thổ ủy trị Syria của Pháp được trao quyền tự trị vào năm 1937. Khu vực đổi tên thành Hatay, và nghị viện của khu vực tuyên bố độc lập với vị thế nước Cộng hòa Hatay trong tháng 9 năm 1938. Thổ Nhĩ Kỳ sáp nhập lãnh thổ với sự tán thành của Pháp vào giữa năm 1939.[100]

Mosul

Năm 1926, Hội Quốc Liên giải quyết một tranh chấp giữa Vương quốc Iraq và nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ về quyền kiểm soát tỉnh cũ Mosul của Ottoman. Anh được Hội Quốc Liên ủy nhiệm quản lý Iraq vào năm 1920 và do đó đại diện cho Iraq trong đối ngoại, quan điểm của Anh là Mosul thuộc về Iraq; còn Thổ Nhĩ Kỳ thì tuyên bố Mosul là bộ phận của khu vực trung tâm lịch sử của mình. Năm 1924, một ủy ban điều tra của Hội Quốc Liên gồm các thành viên người Bỉ, Hungary và Thụy Điển được phái đến khu vực; ủy ban nhận thấy rằng nhân dân Mosul không muốn trở thành bộ phận của cả Thổ Nhĩ Kỳ lẫn Iraq, song nếu phải lựa chọn thì thì sẽ chọn Iraq.[101] Năm 1925, ủy ban đề nghị rằng khu vực là bộ phận của Iraq, theo các điều kiện nhằm đảm bảo quyền tự trị của người Kurd. Hội chính vụ Hội Quốc Liên thông qua đề nghị và phê chuẩn vào ngày 16 tháng 12 năm 1925 và trao Mosul cho Iraq. Thổ Nhĩ Kỳ bác bỏ quyết định, nghi ngờ thẩm quyền của Hội chính vụ. Vấn đề được chuyển đến Tòa án thường trực công lý quốc tế, tòa phán quyết rằng cần phải chấp thuận khi Hội chính vụ Hội Quốc Liên ra một quyết định nhất trí.[102][103]

Vilnius

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Lan và Litva đều giành được độc lập song lại vướng vào các tranh chấp lãnh thổ.[104] Trong Chiến tranh Nga-Ba Lan, Litva ký kết Hòa ước Moskva với Xô viết và trong đó có xác định biên giới của Litva. Thỏa thuận này trao cho Litva quyền kiểm soát thành phố Vilnius, đây là cố đô của Litva song có đa số dân cư là người Ba Lan.[105] Điều này làm gia tăng căng thẳng giữa Litva và Ba Lan và dẫn đến lo ngại rằng hai bên sẽ lại tiếp tục chiến tranh, và vào ngày 7 tháng 10 năm 1920, Hội Quốc Liên dàn xếp Thỏa thuận Suwałki thiết lập một lệnh ngừng bắn và vạch một đường phân giới giữa hai quốc gia.[104] Ngày 9 tháng 10 năm 1920, một đội quân Ba Lan vi phạm thỏa thuận khi chiếm thành phố và thiết lập nước Cộng hòa Trung Litva.[104]

Sau một yêu cầu trợ giúp từ Litva, Hội chính vụ Hội Quốc Liên kêu gọi Ba Lan triệt thaói binh sĩ khỏi khu vực. Chính phủ Ba Lan biểu thị rằng họ sẽ tuân thủ, song lại tăng cường lực lượng trong thành phố với thêm nhiều binh sĩ.[106] Điều này xúc tiến Hội Quốc Liên quyết định rằng tương lai của Vilnius cần do những dân cư địa phương quyết định trong một cuộc trưng cầu dân ý và rằng quân Ba Lan cần triệt thoái và thay thế họ là một lực lượng quốc tế do Hội Quốc Liên tổ chức. Tuy nhiên, kế hoạch gặp phải sự chống đối tại Ba Lan, Litva, và cả Liên Xô vì nước này phản đối bất kỳ lực lượng quốc tế nào hiện diện tại Litva. Trong tháng 3 năm 1921, Hội Quốc Liên bãi bỏ kế hoạch về trưng cầu dân ý.[107] Sau một đề xuất bất thành của Paul Hymans nhằm thiết lập một liên bang giữa Ba Lan và Litva, Ba Lan chính thức sáp nhập Vilnius và khu vực xung quanh trong tháng 3 năm 1922. Sau khi Litva đoạt quyền kiểm soát khu vực Klaipėda, đến ngày 14 tháng 3 năm 1923 thì Hội nghị Đồng Minh thiết lập biên giới giữa Litva và Ba Lan, để Vilnius trong Ba Lan.[108] Nhà cầm quyền Litva từ chối chấp thuận quyết định, và chính thức ở trong tình trạng chiến tranh với Ba Lan cho đến năm 1927.[109] Cho đến tối hậu thư của Ba Lan vào năm 1938 thì Litva mới khôi phục quan hệ ngoại giao với Ba Lan và chấp thuận trên thực tế về biên giới.[110]

Colombia và Peru

Có một số xung đột biên giới giữa ColombiaPeru vào đầu thế kỷ XX, và đến năm 1922, chính phủ hai bên ký kết Hiệp ước Salomón-Lozano trong một nỗ lực nhằm giải quyết vấn đề.[111] Theo hiệp ước này thì đô thị biên giới Leticia và khu vực xung quanh nó được nhượng từ Peru cho Colombia, khiến Colombia tiếp cận được với sông Amazon.[112] Ngày 1 tháng 9 năm 1932, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cao su và đường của Peru bị mất đất theo hiệp ước đã tổ chức tiếp quản vũ trang đối với Leticia.[113] Chính phủ Peru ban đầu không công nhận tiếp quản quân sự, song Tổng thống Peru Luis Sánchez Cerro quyết định kháng cự một hành động tái chiếm của Colombia. Quân đội Peru chiếm Leticia, dẫn đến một xung đột vũ trang giữa hai quốc gia.[114] Sau nhiều tháng dàn xếp ngoại giao, hai chính phủ chấp thuận để Hội Quốc Liên hòa giải, và đại diện của họ trình bày trước Hội chính vụ Hội Quốc Liên. Một thỏa thuận hòa bình lâm thời được cả hai bên ký kết vào tháng 5 năm 1933, trao cho Hội Quốc Liên trách nhiệm quản lý lãnh thổ tranh chấp trong khi các dàn xếp song phương được tiến hành.[115] Đến tháng 5 năm 1934, một thỏa thuận hòa bình cuối cùng được ký kết, theo đó trao trả Leticia cho Colombia, một xin lỗi chính thức từ Peru cho cuộc xâm chiếm năm 1932, phi quân sự hóa khu vực quanh Leticia, tự do thông hành trên các sông Amazon và Putumayo, và một cam kết không xâm lược.[116]

Saar

Saar được tạo thành từ các bộ phận nguyên thuộc Phổ và Rhenish Palatinate và được đặt dưới quyền kiểm soát của Hội Quốc Liên theo Hiệp ước Versailles. Một cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức sau 15 năm từ khi Hội Quốc Liên kiểm soát nhằm quyết định khu vực nên thuộc về Đức hoặc Pháp. Trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1935, 90,3% số phiếu ủng hộ trở thành bộ phận của Đức, kết quả nhanh chóng được Hội Quốc Liên phê chuẩn.[117][118]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Hội_Quốc_Liên http://www.nla.gov.au/research-guides/league-of-na... http://biblio-archive.unog.ch/detail.aspx?ID=245 http://www.unog.ch/80256EDD006B8954/(httpAssets)/3... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/02... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/03... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/12... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/77... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/84... http://www.unog.ch/80256EE60057D930/(httpPages)/B5... http://www.amazon.com/Historical-Dictionaries-Inte...